Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Một số loại hoa làm thuốc dễ nhầm lẫn

Sau đây là 1 số loại hoa làm thuốc thường bị nhầm lẫn trên thực tế cũng như trong sách vở.

Hòe hoa và hoa hòe

Hòe hoa (Flos Styphnolobii imaturi) là nụ hoa đã phơi hay sấy nhẹ tới khô của cây hòe [Styphnolobium japonicum (L.) Schott. Syn. Sophora japonica L.], họ đậu (Fabaceae), còn gọi hòe mễ. Người ta thu hái nụ hoa về vào tháng 4 - 9 và tháng 10 - tháng một năm sau. Sau khi thu được nụ hoa, tiến hành sao vàng nhanh để diệt men rutinase có trong nụ hoa. Nếu không, men này sẽ thủy phân biến rutin thành quercetin làm hàm lượng rutin sụt giảm.

Hòe hoa (nụ hoa khô của cây hòe) khác với hoa hòe là hoa đã nở của cây hòe.

Hòe hoa (nụ hoa khô của cây hòe) khác với hoa hòe là hoa đã nở của cây hòe.

Hoa hòe (Flos Styphnolobii) là chỉ dạng hoa đã nở. Khi đó hàm lượng rutin, hoạt chất của hòe hoa là rất thấp. Trong lúc quy định của DĐVN, hàm lượng rutin phải đạt ít nhất 20%. Do vậy, trong giao thương cũng như trong các đơn thuốc, phương thuốc y học cổ truyền (YHCT), bao giờ cũng ghi là hòe hoa hay hòe mễ chứ không được ghi là hoa hòe.

Khi buôn bán, 1 số người đã sử dụng các cành nhỏ của cụm hoa, thái ra với kích thước tương đương nụ hoa, rồi trộn lẫn về nụ hòe để bán, kiếm nhiều lời. Cần chú ý phân biệt.

Theo YHCT, hòe hoa có vị đắng, tính hơi hàn. Được dùng trị các chứng chảy máu nói chung như chảy máu cam, ho ra máu, băng huyết, đại tiểu tiện thể ra máu; đau đầu, chóng mặt do nâng cao huyết áp hoặc mắt đỏ do sung huyết. Khi sử dụng với tính chất cầm máu, hòe mễ được sử dụng dưới dạng sao đen hay sao cháy.

Hoa hồng và hồng hoa

Hoa hồng: Có nhiều loại hoa hồng. Hoa hồng đỏ (Rosa chinensis Jacq.) có cánh hoa màu đỏ. Hoa hồng trắng [Rosa odorata (Andr.)Sweet] có cánh hoa màu trắng, đều thuộc họ hoa hồng (Rosaceae).

Hoa hồng có gần như loài và được trồng hầu như ở toàn bộ các nước trên thế giới để làm cảnh hoặc trang trí. Ở Việt nam, cánh hoa hồng bạch hấp đường phèn hay mật ong, gạn lấy nước cho trẻ uống nhiều lần trong ngày để trị ho. Cánh hoa hồng đỏ cho vào nước để tắm, có tinh dầu thơm dễ chịu sẽ làm cho da tươi tắn và mịn màng.

Hồng hoa (Carthamus  tinctorius  L.), họ cúc (Asteraceae). Là cây loại thảo, sống hàng năm, cao khoảng 0,6-1m, có khi đến 1,5m. Thân nhẵn có vạch dọc, phân cành ở ngọn. Lá mọc so le, không cuống. Cụm hoa thành đầu, mọc ở ngọn thân. Hoa màu đỏ cam, đính trên đế 1 đế hoa dẹt. Hồng hoa là cây vùng ôn đới, sinh trưởng và phát triển rất tốt trong điều kiện khí hậu xuân hè tại đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Bộ phận sử dụng làm thuốc là hoa (Flos Carthami) và mang tên hồng hoa. Theo YHCT, hồng hoa có vị cay, tính ấm được sử dụng trong các chứng bế kinh, đau bụng kinh,  hành kinh ra huyết khối hoặc trục thai lưu.

Hồng hoa (Carthamus tinctorius L.), họ cúc (Asteraceae), không phải là cây hoa hồng sử dụng làm cảnh hoặc trang trí.

Hồng hoa (Carthamus  tinctorius  L.), họ cúc (Asteraceae), không phải là cây hoa hồng dùng làm cảnh hoặc trang trí.

Kim ngân hoa và hoa kim ngân

Kim ngân hoa: là nụ hoa có kèm 1 số lượng rất ít của hoa mới nở, phơi hay sấy  khô của cây kim ngân (Lonicera japonica  Thunb.) và một số loài khác cùng chi Lonicera của họ kim ngân (Caprifoliaceae). Kim ngân hoa có vị ngọt (cam), tính hàn. Dùng trị các bệnh ung nhọt, ban sởi, mày đay, lở ngứa, cảm mạo phong nhiệt, huyết lị. Như vậy, kim ngân hoa là tên của vị thuốc có Xuất xứ từ hoa kim ngân. Trong các phương thuốc, đơn thuốc cổ truyền cần được ghi là kim ngân hoa, không ghi là hoa kim ngân.

Cúc hoa và hoa cúc

Cúc hoa hay cúc hoa vàng còn gọi là cam cúc,  kim cúc  (Flos Chrysanthemi indici), là cụm hoa đã chế biến, phơi hay sấy khô của cây cúc hoa vàng (Chrysanthemum  indicum  L.),  họ cúc (Asteraceae)

Cúc hoa được YHCT dùng trong điều trị các bệnh cảm mạo phong nhiệt, sốt cao, đau đầu hoặc các chứng hoa mắt, mờ mắt, chảy nhiều nước mắt, tăng huyết áp hoặc đinh sang, mụn nhọt.

Khác với hoa cúc, chỉ các loại hoa của các loài cúc khác nhau như cúc bách nhật, cúc vạn thọ, cúc áo... được dùng cốt yếu để làm cảnh, đôi khi cũng dùng chữa bệnh như cúc áo ngậm khi đau răng...

GS.TS. PHẠM XU N SINH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét