Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Một dược, nhũ hương

Một dược (Myrrha): là chất gôm nhựa của cây một dược [Commiphora myrrha (Nees) Engl.] và cây Balsammodendron chrenbergianum Berg, họ Trám (Burseraceae).

Một dược chứa Heerabomyrrholic acid, commiphoric acid, commiphorinic acid, ergenol, m- cresol, pinen, dipenten, limonen, aldehyd cinamic... Theo Đông y, một dược có mùi thơm, vị đắng, tính bình, về các kinh can, tâm, tỳ. Có tác dụng hoạt huyết, khứ ứ, chỉ thống, tiêu sưng, sinh cơ, thông kinh. Trị bế kinh, đau bụng kinh, đau thượng vị; nhọt độc sưng đau; sưng đau do sang chấn, trĩ... Dùng ngoài để thu miệng vết thương, vết loét lâu lành. Ngày sử dụng 4-12g. Có thể dùng dưới dạng thuốc thang, hoàn tán, cao dán nhọt. Để nâng cao tính hoạt huyết, giảm đau cho vị thuốc, thường tiến hành chế một dược với giấm. Không dùng cho phụ nữ có thai, mụn nhọt đã vỡ.

Nhũ hương (Gummi resina Olibanum): là chất gôm nhựa lấy từ cây nhũ hương (Boswellia carterii Birdw.), họ trám (Burseraceae).

Nhũ hương chứa các chất α, β-boswellic acid, arabic acid, bassorin, pinen, dipenten, α, β-phellandren... Theo Đông y, nhũ hương có vị cay, đắng, tính ấm, mùi thơm. Quy vào các kinh tâm, can, tỳ. Có tác dụng hoạt huyết, khứ ứ, chỉ thống, tiêu sưng, sinh cơ. Trị khí huyết ngưng trệ, kinh bế, hành kinh đau bụng, huyết ứ sau sinh gây đau bụng; ung nhọt; mày đay do phong hàn.Ngày dùng 3-6g. Dùng ngoài dưới dạng cao dán nhọt hoặc đắp bó vào vết thương. Không dùng cho phụ nữ có thai, mụn nhọt đã vỡ. Nhũ hương lúc sao chế cũng như vậy như 1 dược.

Nhũ hương (nhựa của cây nhũ hương) và một dược (nhựa của cây một dược) tác dụng hoạt huyết khứ ứ mạnh, trị bế kinh thống kinh, chấn thương ứ huyết…

Nhũ hương (nhựa của cây nhũ hương) và 1 dược (nhựa của cây một dược) tác dụng hoạt huyết khứ ứ mạnh, trị bế kinh thống kinh, chấn thương ứ huyết…

Cách chế biến, dùng một dược và nhũ hương:

Dạng thuốc bột

Một dược tán: 1 dược, hồng hoa mỗi vị 5g; diên hồ sách, đương quy mỗi vị 10g.Một dược giã vụn, cùng sao với đăng tâm thảo (cỏ bấc đèn). Sau lúc sao, tán thành bột mịn. Cứ 40g 1 dược dùng 1g đăng tâm thảo.

Để tăng tính giảm đau của một dược, có thể chế một dược với giấm ăn: 1 dược cho vào chảo, sao nhỏ lửa đến khi mặt ngoài hơi tan ra thì phun giấm ăn vào; tiếp diễn sao đến lúc mặt ngoài sáng bóng, lấy ra để nguội, rồi tán mịn. Cứ 1kg một dược dùng 60ml giấm ăn. Các vị còn lại sao khô, tán mịn rồi trộn đều với bột một dược nói trên. Mỗi lần uống 6-10g. Ngày hai lần, trị chứng đau bụng kinh, phụ nữ bế kinh, đau dạ dày.

Nhũ hương, 1 dược tán: nhũ hương, 1 dược mỗi vị 5g; bạch truật, đương quy, bạch chỉ mỗi vị 10g; nhục quế, cam thảo mỗi vị 3g. Nhũ hương và một dược chế biến như trên, rồi trộn đều bột của các vị thuốc còn lại với bột của nhũ hương và 1 dược. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 6 - 10g với rượu hoặc nước đun sôi để nguội, trị sưng đau do chấn thương.

Dạng thuốc thang

Chữa tĩnh mạch chi, thể khí huyết ứ với các biểu hiện, sắc mặt tối sạm, tinh thần ủ rũ, bứt rứt dễ nóng, đêm đau tăng, chân hoặc tay lạnh, sắc da thâm tím, khô... Dùng bài: hoàng kỳ 16g; đương quy, sinh địa, huyền sâm, tử hoa địa đinh, đan sâm mỗi vị 12g; nhũ hương, một dược, kim ngân hoa, bồ công anh mỗi vị 10g; hồng hoa, diên hồ sách mỗi vị 8g; cam thảo 6g.

Lấy riêng 2 vị nhũ hương và một dược ra. Các vị còn lại sắc với nước, sắc hai lần, mỗi lần đun sôi 45 phút. Lọc lấy nước thuốc lúc còn nóng, cho nhũ hương và một dược về quấy đều cho tan, chia 3 lần uống trong ngày. Cũng có thể đem nhũ hương, 1 dược chế theo cách làm bột như trên rồi cho bột về nước sắc, quấy đều rồi uống.

Chữa tĩnh mạch chi, thể nhiệt độc thịnh với các biểu hiện, sắc mặt sạm khô, người bứt rứt khó chịu, ù tai chóng mặt, chi mắc bệnh bị đen tím, sưng to, mọng, đau liên tục, ở chỗ Tiến hành lở loét, hoại tử, chi phù, da bóng, chảy nước hoặc chảy máu... Dùng bài: hoàng kỳ, kim ngân hoa mỗi vị 16g; đương quy, đan sâm, tử thảo nhung, xích thược, ngưu tất, địa long mỗi vị 12g; nhũ hương, 1 dược, địa miết trùng mỗi vị 10g; sinh cam thảo 6g.

Lấy riêng 1 dược và nhũ hương ra. Địa long và địa miết trùng sao khô, tán bột mịn. Các vị còn lại sắc với nước, sắc 2 lần, mỗi lần đun sôi 45 phút, lọc lấy nước thuốc khi còn nóng, cho nhũ hương và một dược về quấy đều, cho tiếp bột địa long và địa miết trùng vào, quấy đều. Uống ấm, ngày 3 lần.

Nhũ hương, 1 dược là những chất gôm, nhựa, bản chất quánh, dính. Nếu sắc chung với các vị thuốc trên sẽ hạn chế tính tan của các vị thuốc khác làm giảm tác dụng của thuốc. Địa long (giun đất) và địa miết trùng (một loại gián đất) có thực chất là protein, sẽ bị đông vón bởi chất tanin có trong các vị thuốc.

GS.TS. PHẠM XU N SINH

Cây quao nước giải độc gan

Cây quao nước mọc hoang ở bờ rạch, ưa phèn có nhiều tại Bến Tre, Sông Bé, Minh Hải (rừng U Minh). Mùa hoa quả: tháng 4-8. Bộ phận dùng làm thuốc là vỏ thân, lá và rễ của cây.

Khi dùng đẽo vỏ của những cây già, cạo sạch vỏ ngoài, cắt thành từng phiến, phơi khô hoặc sao hơi vàng cho thơm.

Cây quao nước.

Chữa viêm gan mạn tính, xơ gan:

Bài 1: Vỏ quao nước 50g, rễ bình bát 10g, rễ muồng trâu 10g, lá hoặc quả dành dành 20g, vỏ cây chân chim 5g, dây bìm bìm biếc 5g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.

Bài 2: vỏ cây quao nước 50g, vỏ cây cách 50g, lá cối xay 50g, lá trâm bầu 50g, rễ cỏ trầy xước 50g, cỏ hàn the hoặc cỏ tranh 20g, quả dứa gai 20g, thân ráy gai 20g. Thái nhỏ, sắc nước uống. Dùng 1-2 tháng.

Thuốc bổ phổi từ ho: Lá quao nước 40g phối hợp với lạc tiên 20g, bọ mắm 20g, huyết dụ 10g, cỏ chân vịt 5g, mía lau (loại mía nhỏ) 50g. Tất cả thái nhỏ phơi khô sắc uống làm 2 lần trong ngày.

Chữa sỏi thận: Rễ quao nước 30g, rễ rau ngót (sao tẩm mật) 30g, rễ thài lài trắng 20g, hà thủ ô đỏ (chế với nước đậu đen) 20g. Tất cả thái nhỏ phơi khô, sắc uống.

DS. Nguyễn Thị Hồng

Những vị thuốc không dùng cho phụ nữ có thai

Trong thời kỳ mang thai, dù uống thuốc tân dược hay Đông dược cũng phải hết sức cẩn thận để không gây ảnh hưởng tới thai nhi. Vừa uống thuốc vừa  theo dõi cơ thể có điều gì khác lạ, hãy báo ngay với thầy thuốc để được xử trí kịp thời.

Dùng thuốc cho phụ nữ có thai phải hết sức thận trọng. Do tác dụng thông kinh hoạt huyết của Đông dược, những vị thuốc dưới đây không nên dùng cho phụ nữ có thai:

Nhóm thuốc giải biểu

Quế chi: vị cay ngọt, tính ấm,  tác dụng giải biểu, tán hàn chủ trị cảm mạo phong hàn, làm thông dương khí, ấm kinh thông mạch, ấm thận, hành thuỷ, thuốc có tác dụng hành huyết, giảm đau trong các chứng bế kinh, ứ huyết.

Thuyền thoái: vị mặn tính hàn, tác dụng tán phong nhiệt, giải biểu, giải độc, trấn kinh an thần, chữa sốt cao, co giật, chống viêm.

Nhóm thuốc thanh nhiệt

Mẫu đơn bì: vị đắng, tính hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt, lương huyết làm thanh huyết nhiệt, trị chảy máu cam, thổ huyết ban chẩn, thanh can nhiệt chữa chứng sườn đau tức, hoa mắt đau đầu, đau bụng kinh.

Bạch mao căn: vị ngọt, tính hàn, tác dụng thanh trừ nhiệt độc có trong cơ thể, tư âm, thanh nhiệt, tiêu ứ huyết. Làm lương huyết, chỉ huyết trong trường hợp đái ra huyết, chảy máu cam, ho ra máu.

Những vị thuốc không sử dụng cho phụ nữ có thaiMẫu đơn bì - Vị thuốc giúp chữa hoa mắt đau đầu, đau bụng kinh.

Nhóm thuốc ho

Bán hạ: là vị thuốc hoá đàm hàn, vị cay, tác dụng ráo thấp, trừ đàm, chỉ ho sử dụng trong các chứng đàm thấp, ho nhiều đàm chữa viêm khí quản mạn tính, giáng nghịch, chỉ nôn, tiêu phù giảm đau, giải dộc.

Thường sơn: vị đắng, tính hàn, hơi có độc, quy vào ba kinh Phế, Tâm, Can. Tác dụng tiêu đờm, chữa sốt rét, làm cho đờm nôn ra, làm hết  bĩ tích, bứt rứt khó chịu.

Nhóm thuốc bình can, tức phong, an thần khai khiếu

Toàn yết: vị mặn, hơi cay, tính bình, tác dụng làm tắt phong, chỉ kinh chữa các bệnh trúng phong, uốn ván, điên giản chân tay co quắp,  hoạt lạc thông kinh, giảm đau, giải độc chữa sang lở mụn nhọt. Không sử dụng thuốc cho người huyết hư, phụ nữ có thai.

Băng phiến kết tinh từ tinh dầu đại bi, vị cay đắng, tính hơi hàn, tác dụng khai khiếu, tỉnh thần, tiêu tán màng mộng, mắt đau đỏ.

Xạ hương có vị cay, tính ấm, tác dụng trong chứng kinh phong, điên giản, hôn mê, trúng phong.

Nhóm thuốc hành khí

Hậu phác: vị cay, tính ấm, tác dụng hành khí, hoá thấp, giảm đau chữa Tỳ, Vị hàn thấp khí trệ, ngực bụng đầy trướng, ăn uống không tiêu.

Chỉ thực: vị đắng, tính hàn, tác dụng phá khí tiêu tích sử dụng khi đại luôn thể bí kết tỳ hư, ứ trệ, ngực bụng đầy trướng, ăn không tiêu, lỵ lâu ngày, giảm đau, lồng ngực đầy tức, khó thở do ho nhiều đàm.

Huyền hồ: tác dụng hoạt huyết tán ứ, lợi khí, chỉ đau. Có thể hành được khí trệ trong huyết, huyết trệ trong khí, thông tiểu tiện, trừ phong. Điều trị các chứng khí rọng, huyết kết, kinh nguyệt không đều, các chấn thương bầm tím, huyết chét đọng lại. Là thuốc hoạt huyết lợi khí nhất trong các thứ thuốc, song dễ gây sẩy thai.

Đào nhân: vị đắng, ngọt, tính bình, tác dụng hoạt huyết khử ứ chữa các bệnh về kinh nguyệt hoặc sau đẻ ứ huyết. Làm nhuận tràng, thông tiện, giảm đau, chống viêm. Tuy nhiên, do tác dụng hoạt huyết, khử ứ dễ làm sẩy thai.

Hồng hoa: có vị cay, tính ấm, tác dụng hoạt huyết thông kinh, khử ứ huyết, giải độc trong trường hợp sưng đau, thai chết lưu, tuy nhiên có tác dụng tiếp nhân tràng thông tiện. Hồng hoa làm nâng cao sự co bóp  của tử cung, phụ nữ có thai không được dùng.

Ngưu tất: vị đắng chua, tính bình, tác dụng hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc, chữa bế kinh, kinh nguyệt không đều. Làm thư cân, kiện cốt, điều trị các chứng về khớp, nhất là khớp chân. Ngoài ra còn chỉ huyết, lợi niệu, thông lâm, hạ áp, giải độc, chống viêm. Người có thai không nên dùng do tác dụng hoạt huyết và tăng co bóp tử cung của thuốc.

Ích mẫu: vị cay, hơi đắng, tính mát, tác dụng hành huyết, thông kinh chữa kinh nguyệt không đều, sau đẻ ứ huyết, làm lợi thuỷ, tiêu thũng, giải độc, trị mụn nhọt sang lở.

Nhũ hương: là loại nhựa vị đắng, tính ôn, tác dụng hoạt huyết hành khí, thông kinh lạc, giảm đau, trị khí huyết ứ trệ gây đau đớn.

Hoa hoè: vị đắng, tính hàn, quy vào 2 kinh Can và Đại trường. Có tác dụng lương huyết, chỉ huyết, trị huyết nhiệt gây xuất huyết, thanh nhiệt, bình can, hạ áp, chữa đau thắt mạch vành, thanh phế, chống viêm.

Nhóm thuốc tả hạ

Đại hoàng: vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh tràng, thông tiện, tả hoả, giải độc, trục ứ thông kinh.

Mang tiêu: vị cay đắng, mặn, tác dụng thanh tràng thông tiện, dùng trong chứng vị tràng thực nhiệt, đại tràng bí kết.

Phan tả diệp: vị cay, đắng, tác dụng thanh tràng, thông tiện chữa chứng nhiệt tích lại làm cho đại tràng bí kết, táo bón. Làm kiện vị, tiêu thực, tả tích trệ, chữa thuỷ thũng, bụng trướng to.

Khiên ngưu tử: vị đắng, tính hàn, có độc, tác dụng trục thuỷ, tả hạ điều trị chứng đại tiểu luôn thể bí kết, thuốc còn sát trùng, trị giun đũa.

Thương lục: vị đắng tính hàn, có độc, là thuốc trục thuỷ, tả hạ,  sát trùng sử dụng chữa mụn nhọt sưng phù đau đớn hoặc trị giun.

Thông thảo: vị ngọt, tính lạnh, tác dụng lợi thuỷ, thanh thấp nhiệt dùng lợi tiểu, tiêu thuỷ thũng, chữa chứng tắc tia sữa, thông kinh bế tại phụ nữ, gây co tử cung, thúc đẻ nhanh.

DS. Phạm Hinh

Ðậu đỏ: Thanh nhiệt, lợi thủy

Đậu đỏ có tên thuốc trong Đông y là xích tiểu đậu. Dược liệu hạt già mẩy, vỏ đỏ, nhân hồng, khô, rắn, chắc, không mốc mọt. Tạng nhiệt thì sử dụng sống, tạng hơi hàn thì sao qua (có thể sao đen tồn tính có công dụng an thần, lợi tiểu) nhưng thường sử dụng sống.

Đậu đỏ vị ngọt chua, tính bình, vào 2 kinh tâm và tiểu tràng có tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy, tiêu sưng tấy, rút mủ, cầm máu. Chủ trị phù thũng, nhiệt miệng, mẩn ngứa, mụn nhọt, mề đay, bệnh ngoài da. Theo Y học hiện đại, đậu đỏ có tác dụng kháng khuẩn, tiêu viêm, lợi tiểu, hạ cholesterol và chống ung thư.

Trị viêm thận cấp tính: đậu đỏ 50g, cá chép một con, bí đao 1kg, hành hoa. Chế biến thành món canh cá chép đậu đỏ rồi ăn cả nước lẫn cái. Ăn nóng, ngày ăn 1 lần, ăn thường xuyên 5-7 ngày.

Trị phù thũng, tiểu tiện thể không thông: đậu đỏ 20g, hạt bo bo 30g, gạo tẻ 30g. Đậu đỏ ngâm mềm nấu trước, rồi cho gạo tẻ, hạt bo bo vào nấu nhừ, thêm đường. Ngày ăn 2 lần.

Thuốc thanh nhiệt, lợi thủy, tĩnh tâm, an thần: đậu đỏ 20g, đảng sâm 8g, đương quy 8g, tim lợn 1 quả, nấm hương vừa đủ. Tất cả hầm mềm, ăn cái, uống nước.

Trị viêm tiểu cầu thận: đậu đỏ 90g, râu ngô 60g, táo đỏ 20g, thêm đường vừa đủ. Nấu nước uống trong ngày (thời gian điều trị từ một - 3 tháng).

Trị tiểu đường, mẩn ngứa, mụn nhọt: đậu đỏ 30g, bí đao 1kg. Đậu đỏ nấu trước với nước cho mềm, bí đao cho về sau. Ăn cái, uống nước.

Bổ khí huyết, kiện tỳ ích vị, tăng cường sức khỏe: đậu đỏ 30g, chim cút 2 con, gừng tươi 3 lát. Hầm mềm, nêm gia vị, ăn nóng.

ThS. Nguyễn Ngọc Lan

Quả trám

Trám đen

Trám đen

Quả trám còn có tên gián quả, thanh quả,... (miền Trung gọi Mác cơm và cà ná tại miền Nam). Trám có 2 loại: trám trắng (Canarium album Raeusch) còn gọi trám xanh và trám đen (Canarium nigrum Engl) còn gọi cây bùi màu tím thẫm. Quả trám được chế biến thành mứt, ô mai, trám muối... thịt kho trám, cá kho trám... Trong Đông y, trám là vị thuốc trị nhiều bệnh, đặc biệt là bệnh đường hô hấp.

Cùi trám chứa đạm, béo, đường, vitamin đặc biệt là vitamin C, B1, PP; chất xơ; các chất khoáng như canxi, sắt, kẽm, photpho, kali, magie, carroten;... Axit folic và các axit hữu cơ.

Sau đây là một số cách dùng trám làm thuốc

Đêm ngủ mùa thu đông thấy khô cổ muốn ho, mất ngủ: hai - 3 quả trám trắng tươi (bỏ hột) đập giập lấy nước uống. Có thể thêm gừng, đường hay mật để uống.

Viêm họng cấp mạn, amidan, khô rát cổ, mất tiếng: dùng trám muối như chanh muối để ngậm hay pha nước uống. Có thể dùng phối hợp trám tươi để hãm uống chữa đau họng và hạ hư hỏa.

Trám trắng (trám xanh)Trám trắng (trám xanh).

Sốt cao, khô môi, khát nước: Giã quả trám lấy nước uống.

Ho khản: Trám tươi 4 quả bỏ hột, giã nát với huyền sâm 10g thái lát, cho về nồi, đổ ngập nước, nấu uống. Tác dụng tư âm, giáng hỏa, lợi yết hầu, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng.

Nước uống sinh tân dịch, chữa ho, thanh nhiệt giải thử: Trám tươi 5 quả bỏ hột, kim thạch hộc 5g, thái nhỏ, rễ lau 5g thái nhỏ, mã thầy 5g gọt vỏ, lê gọt vỏ hai quả, mạch đông 10g, ngó sen 10 miếng. Tất cả nấu với 2 lít nước, trên lửa nhỏ 1 giờ. Để nguội lọc lấy nước để uống hằng ngày. Thích hợp cho người miệng khô, hay khạc nhổ nước miếng, ôn bệnh nhiệt thịnh, phổi ráo.

Nước thanh nhiệt: Trám tươi 20g bỏ hạt, rễ lau tươi 4 chùm thái nhỏ. Nấu với 0,5 lít nước trong 1/2 giờ lọc nước uống nóng. Tác dụng thanh phế nhiệt, hóa đàm, thanh can nhiệt, vị nhiệt, sinh tân dịch, khỏi ho.

Canh thanh long bạch hổ thang: Củ cải trắng 1kg, trám tươi xanh liều lượng tùy ý. Nấu nhừ (trong vài tiếng). Tác dụng: chữa họng sưng đau rát, thanh nhiệt.

Món uống ngũ vị bảo kiện: cam 10g, trám tươi 10g (bỏ hột), ngó sen tươi 120g, mã thầy 150g, gừng tươi 6g. Tất cả đều bỏ vỏ, bỏ hạt giã nát cho vào vải sạch vắt lấy nước (hoặc ép) để uống. Tác dụng: thanh tân, chỉ khát, giải nhiệt, thanh phế, lợi hầu, trị sưng họng, ho khạc, buồn nôn, khó nuốt...

Chữa ho khan: trám đen muối 20 quả, vỏ đậu phụ 50g, nước vừa đủ nấu sôi xong chắt lấy nước uống.

Rát họng, khản tiếng: nhai trám đen nuốt nước. Ngày 7 quả, liền 3-4 ngày.

Viêm họng mạn tính: Nấu trám với chè xanh, mật ong uống.

Ho gà: Nấu trám đen với đường phèn lấy nước uống.

Lưu ý: Trong 1 cuốn sách đang lưu hành có ghi “quả trám còn gọi là ôliu?...”. Tránh nhầm lẫn vì cây và quả ôliu hoàn toàn khác cây quả trám.

BS. Phó Thuần Hương

Đừng bỏ phí loại rau này vì công dụng chữa bệnh tuyệt vời của chúng

Thường sử dụng trị phù thũng, bệnh về thận, chữa lỵ và làm thuốc điều kinh. Phần cây trên mặt đất được dùng làm thuốc chữa bỏng, đắp tiêu viêm mụn nhọt. Lá có tính long đờm và được dùng trị ho và các bệnh về đường hô hấp. Hạt sử dụng để đắp, băng bó chấn thương...

Dền gai là loại rau quen thuộc thường được bà con nhiều nơi hái lá nấu canh. Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, hầu như vườn nhà nào cũng có. Dền gai là cây thân thảo, phân cành nhiều, không lông. Lá mọc so le, hình thuôn dài, cuống dài có cánh, tại gốc có hai gai, mặt trên phiến lá màu xanh nhạt.

Hoa mọc thành sim và gần xếp sít nhau ở nách lá thành những bông dài, các lá bắc như gai. Quả là 1 túi hình trứng nhọn một đầu. Hạt đen óng ánh. Ngoài công dụng làm rau ăn, dền gai còn được xem như là một vị thuốc quý chữa được nhiều bệnh. Toàn cây được dùng làm thuốc. Có thể thu hái quanh năm, đem vào rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô. Có thể đốt thành tro, sử dụng dần.

Cây rau dền.

Một số bài thuốc theo kinh nghiệm

Bài 1: Mụn nhọt chưa vỡ: Rễ rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên mụn nhọt 2 - 3 tiếng thay băng, ngày đắp hai - 3 lần, có tác dụng làm nhanh vỡ mủ.

Bài 2: Ho có đờm: Dùng thân, lá cây rau dền gai 50g, cam thảo đất 16g, lá bồng bồng 20g, kim ngân hoa 20g. Rửa sạch toàn bộ các vị thuốc, cho về ấm đổ 500ml nước sắc còn 250ml, chia hai - 3 lần. Dùng liền 5 ngày.

Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50g, cam thảo đất 16g, lá húng chanh 16g, vỏ rễ dâu tằm 16g. Rửa sạch tất cả các vị thuốc, cho vào ấm đổ 500ml nước sắc còn 250ml, chia hai - 3 lần. Dùng liền 5 ngày.

Bài 3: Trật đả, ứ huyết: Dùng cành lá hay toàn cây nấu nước uống, mỗi ngày 10 - 15g uống thay nước trà.

Bài 4: Viêm họng, đau họng: Thân, lá cây rau dền gai, lượng vừa đủ, thêm một ít muối hạt, 1 - 3 lát gừng tươi. Tất cả nhai nát, nuốt nước dần. Ngày nhai, ngậm 1 - hai lần đến khi đỡ đau họng.

Bài 5: Hỗ trợ điều trị sỏi thận: Rễ rau dền gai (sao vàng), vỏ quả bí đao 20g, kim tiền thảo, mã đề, rễ thiên lý, rễ cỏ tranh, đậu đen (sao thơm) mỗi thứ 12g. Rửa sạch tất cả các vị thuốc, cho về ấm đổ 500ml nước sắc còn 250ml, chia 2 - 3 lần. Dùng 10 ngày 1 liệu trình.

Bài 6: Bỏng nhẹ: Thân, lá cây rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên vết bỏng.

Bài 7: Chữa kinh nguyệt không đều: Rau dền gai 15g, bạc thau 20g. Rửa sạch toàn bộ các vị thuốc, cho về ấm đổ 450ml nước sắc còn 200ml, chia hai - 3 lần. Dùng liền 10 ngày.

Bài 8: Chữa bạch đới, khí hư: Rễ rau dền gai 20g, lá bạc hà 16g, phơi khô, thái nhỏ, sắc với 400ml nước lấy 200ml, chia làm hai lần uống trong ngày. Dùng 7-10 ngày.

Bài 9: Chữa da nổi mẩn ngứa do tiếp xúc (rơm rạ): Dền gai tươi, rau sam tươi, lá hẹ tươi (hoặc lá bạc hà tươi) các vị đều bằng nhau. Giã nát đắp vào chỗ da nổi mẩn, mỗi ngày hai - 3 lần.

Bác sĩ Trần Thị Hải

Hẹ giúp thanh nhiệt, giải độc

Hẹ có tên gọi khác là cửu thái, cửu thái tử, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Danh pháp khoa học là Allium ramosum dạng hoang dã) hay Allium tuberosum(dạng gieo trồng), thuộc họ Hành (Alliaceae). Các văn bản gần đây chỉ liệt kê nó dưới tên gọi Allium ramosum. Mùi vị của nó là trung gian giữa tỏi và hành tăm.

Trong 1kg lá hẹ có 5 - 10g đạm, 5 - 30g đường, 20mg vitamin A, 89g vitamin C, 263mg canxi, 212mg phốtpho, nhiều chất xơ. Nếu ăn 86g hẹ sẽ thu được 1,9g protid, 5,1g glucid và 25calo năng lượng. Chất xơ có tác dụng nâng cao tính nhạy cảm với insulin làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngừa xơ mỡ động mạch, bảo vệ tuyến tụy. Chất Odorin là 1 kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.

Những công dụng

Cây hẹ cho nhiều kháng sinh quý: nhất là với các bệnh vào hô hấp và đường ruột của trẻ em. Hẹ đã được các nhà khoa học nghiên cứu có các hợp chất: Sunfua, saponin và chất đắng... Đặc biệt, chất Odorin có trong cây hẹ được xem như 1 kháng sinh đặc trị các loại vi trùng staphyllococcus aureus và Bacillus coli. Ngoài ra, trong hạt hẹ còn có ancaloit và saponin. Trong nước ép tươi của lá hẹ có rất nhiều kháng sinh đối với nhiều loại vi trùng, như một kháng sinh đa khuẩn cho các loại vi trùng ở đường tiêu hóa nói chung và nhất là là đối với bệnh lý đường ruột nói riêng như vi trùng Staphyllococcus aureus, Samonella typhi, Sh Flexneri và Subtilis, colipathogene và Coli bethesda. Tính chất của kháng sinh này khá vững bền.

Hẹ giúp thanh nhiệt, giải độc

Giảm huyết áp và cholesterol: cũng như tỏi, hẹ có chứa allicin. Allicin có tác dụng giảm huyết áp và ngăn quy trình sản sinh cholesterol trong cơ thể. Hơn nữa, chúng cũng có đặc tính chống vi khuẩn và chống nấm, tẩy vi khuẩn và nấm trong đường ruột, bảo đảm cho hệ thống tiêu hóa hoạt động tốt.

Giúp ngăn ngừa ung thư: hẹ là nguồn chứa chất flavonoid và lưu huỳnh tự nhiên có thể ngăn chặn một số loại bệnh ung thư hiệu quả. Những chất này giúp chống lại các gốc tự do và ngăn chặn chúng phát triển. Vì vậy, ăn hẹ có thể bộ phận ung thư đại tràng, vú, tuyến tiền liệt, phổi và dạ dày.

Các vấn đề vào da: vì hẹ có đặc tính chống vi khuẩn và nấm nên rất tốt cho da, đồng thời nỗ lự những khiếu nại về nhiễm trùng da. Hẹ có thể thay thế cho các loại kem bôi trị vảy và làm lành vết thương hở. Nhờ đặc tính này, hẹ có thể tiêu diệt vi khuẩn, nấm, giúp vết thương mau lành.

Giúp xương chắc khỏe: hẹ chứa nhiều vitamin K - loại vitamin chịu trách nhiệm cho sức khỏe xương của bạn. Sự khử khoáng xương được ngăn chặn đáng kể bằng việc ăn hẹ thường xuyên. Đặc biệt phụ nữ dễ bị loãng xương hơn nam giới nên thường xuyên ăn hẹ sẽ giúp tăng mật độ xương.

Ngăn chặn những vấn đề khó chịu khi mang thai: hẹ tươi chứa rất nhiều folate (axít folic là loại axít amin có vai trò thiết yếu trong quy trình phân chia tế bào). Phụ nữ mang thai tiêu thụ 1 lượng axít folic thích hợp sẽ ngăn chặn được đáng kể dị tật bẩm sinh vào ống thần kinh ở trẻ sơ sinh.

Ngăn ngừa đông máu: flavonoid trong hẹ giúp cân bằng huyết áp, đặc biệt giúp giảm huyết áp cao. Hẹ giàu vitamin C có tác dụng tăng cường tính đàn hồi của các mao mạch máu và thúc đầy sự hấp thụ sắt trong cơ thể. Ăn hẹ thường xuyên sẽ ngăn ngừa chứng đông máu.

Giúp ngăn ngừa mụn: sự có hiện tượng của beta-carotene trong hẹ có tác dụng làm sáng làn da, ngăn ngừa mụn. Ăn hẹ liên tục giúp da sáng rạng rỡ.

Hẹ là thức ăn - vị thuốc có tác dụng rất tốt nhất vềmùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn. Sách Nội kinh có viết: “Xuân hạ dưỡng dương”, nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: “Rau hẹ là ấm nhất, hữu dụng cho người, nên ăn thường xuyên”.

Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất công hiệu. Lá hẹ có vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm.

Các bài thuốc chủ yếu từ hẹ

Ho khò khè tại trẻ em: lá hẹ hấp cơm lấy nước cho trẻ uống.

Rôm sẩy: rễ hẹ 60g sắc nước uống.

Cảm mạo, ho do lạnh: hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước.

Táo bón: hạt hẹ rang vàng, giã nhỏ. Mỗi lần uống 5g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần.

Phòng táo bón, tích trệ: hàng sáng dậy, chưa ăn sáng, uống nước hẹ giã đã lọc bã.

Đái dầm, ỉa chảy lâu ngày tại trẻ em: nấu cháo rễ hẹ. Rễ hẹ tươi 25g, gạo 50g, rễ hẹ vắt lấy nước cho về cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.

Nấc do lạnh: uống 1 bát nước hẹ đã giã nát và lọc bỏ bã.

Thổ tả: cấp cứu bằng một nắm rau hẹ giã lấy nước cốt, chưng cách thủy cho uống.

Đau răng: lấy 1 nắm hẹ (cả rễ) giã nhuyễn, đặt vào chỗ đau, đặt thường xuyên cho tới khi khỏi.

Đau họng: lá và củ hẹ giã đắp lên cổ, băng lại, nhai củ cải, lá húng chanh và nuốt nước.

Hen suyễn: lá hẹ 1 nắm giã nát, lấy nước uống hay sắc lên để uống.

Sơn ăn lở loét: lá hẹ giã nát đắp lên chỗ tổn thương.

Ghẻ: lá hẹ 50g, rau cần 30g, giã nát đắp lên chỗ tổn thương. Ngày hai lần.

Đái tháo đường: củ hẹ 150g, thịt sò 100g. Nấu chín, nêm gia vị. Ăn thường xuyên. Trường hợp ra mồ hôi trộm (âm hư tự hãn) sử dụng món này cũng tốt.

Gan nhiễm mỡ ở người béo phì: hải đới 100g ngâm nước cho nở, cắt sợi. Lá hẹ 200g cắt đoạn dài, cùng nhúng nước sau 5 phút vớt ra. Cho tỏi giã nhuyễn, dấm, dầu vừng, tương và một ít đường trộn đều. Ăn hàng ngày và kéo dài trong một tháng.

Lưu ý: tác dụng dược lý của hẹ cao nhất là về mùa xuân, kỵ mật ong và thịt trâu. Những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt không nên sử dụng hẹ lâu dài.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ